"Small Is
Beautiful - A Study of Economics As If People Mattered" was written by
E.F. Schumacher, first published in 1973. The book used in this review was
reprinted by Harley & Marks Publishers Inc, 1999 in the United States with
the length of xiii + 286 pages, consisting of four parts with 19 chapters,
Epilogue, Notes and Acknowledgements, Biographies of Contributors, Resources
and Index.
Friday, 14 June 2013
Wednesday, 24 April 2013
Tại sao du học Ấn Độ? - Why study in India?
Từ trước đến nay việc xuất ngoại du
học là vấn đề cần thiết đối với người Việt Nam nói chung cũng như đối với Tăng
Ni trong Phật giáo nói riêng. Việc xuất ngoại du học là một bước tiến mới của một
cá nhân trong lĩnh vực tìm kiếm tri thức, nâng cao trình độ, cũng như tiếp cận
môi trường học thuật và công nghệ mới mà chúng ta chưa có, hoặc giả chỉ đơn thuần
là nhu cầu tìm học ở một môi trường mới mà thôi!
Wednesday, 17 April 2013
Mừng Ngày Tốt Nghiệp! - the 90th Convocation of Delhi University
Cuối cùng thì ngày ấy cũng đã đến. Đó là ngày tốt nghiệp! Tôi thật sự vui mừng và tự chúc mừng với những gì mình đã đạt được. Mọi thứ đã được đền bù xứng đáng cho những năm tháng khổ cực, lo lắng, chịu đựng và thử thách.
Đây là ngày lễ tốt nghiệp lần thứ
90 của trường đại học Delhi, tức là đúng 90 năm kể từ khi trường được thành lập
vào năm 1922, và như vậy trường cũng đã tròn 90 năm tuổi. Cái tuổi không quá
dài so với một đại học lớn trên thế giới, nhưng cũng không phải là ngắn so với một
đời người. Và như vậy, điều chắc chắn là không còn sinh viên nào của khóa đầu
tiên của trường còn sống sót!
Wednesday, 20 February 2013
Khái quát về chân lí trong Phật giáo
Phật
giáo có khái niệm về “một chân lí”, “hai chân lí”, “bốn chân lí”, và nhiều chân
lí.
Một
chân lí là khái niệm về một chân lí duy nhất được xác định trong Kinh tập (Sutta Nipāta) thuộc tiểu bộ kinh Nikaya. Ở đó Đức Phật nói
rằng, “chỉ có một chân lí, không có hai” (ekaṃ hi saccaṃ na dutiyaṃ atthi).[1] Khi
Đức Phật nói về chân lí là một, không hai, thì Ngài muốn nói rằng, chân lí là sự
hợp nhất không chống trái, nghĩa là một tuyên bố không sai, không mâu thuẫn, chặt
chẽ và mạch lạc, phù hợp với thật tại tối thượng mà Đức Phật chứng ngộ. Chân lí
này thường được hiểu là Niết bàn.
Hai
chân lí chính là “nhị đế” mà chúng ta thường gặp khi nhắc đến các học thuyết trong
Đạo Phật. Nhị đế thường được hiểu là “chân đế” và “tục đế”, hay chân lí thế
gian và chân lí xuất thế gian, hoặc là chân lí tương đối và chân lí tuyệt đối.
Tiếng Anh thường đề cập đến là conventional truth và ultimate truth. Tức là
chân lí rốt ráo và chân lí mang tính quy ước. Thật tế, rõ ràng là có hai loại
chân lí này ở thế gian. Tuy chân lí kia được gọi là chân lí xuất thế gian, có
nghĩa là chân lí vượt ra ngoài thế gian này nhưng nó cũng phải và được đặt
trong môi trường thế gian để mà hiểu và ứng dụng. Nếu không tồn tại một chân lí
xuất thế gian đó ở đời thì không thể nào chứng được chân lí đó. Ý nghĩa này thường
được tìm thấy trong luận thuyết của ngài Long Thọ về tánh không rằng: “Nếu
không y tục đế, chân đế không thể nào có thể giác ngộ được. Và nếu không hiểu
được hai chân lí này thì không thể hiểu lời Phật dạy.”[2]
Nói tóm lại, Ngài Long Thọ nói rằng, chính Đức Phật là người giảng dạy hai loại
chân lí này; tất cả giáo pháp của Ngài đều dựa trên hai loại chân lí này.
Bốn
chân lí là Tứ Đế, hay Bốn Thánh Đế rất nổi tiếng trong giáo lí Đạo Phật. Tứ
Thánh Đế này là: (1) Chân lí về khổ (Khổ Đế), (2) Chân lí về nguyên nhân của khổ
(Tập Đế), (3) Chân lí về sự diệt khổ (Diệt Đế), (4) Chân lí về con đường đưa đến
sự diệt khổ (Đạo Đế). Như vậy, Khổ-Tập-Diệt-Đạo là 4 chân lí hiện hữu ở đời. Đạo
Phật nói khổ, nhưng luôn luôn nói về sự chấm dứt của nó. Và để châm dứt khổ, đạo
Phật thường đưa ra con đường để giải thoát khỏi khổ; nhưng trước hết phải hiểu
cho được nguyên nhân của khổ là gì. Đây chính là bốn phạm trù trọng yếu trong đạo
Phật nhằm áp dụng cho việc tu tập.
Còn
nhiều chân lí đó là “chân lí theo 10 cách” được đề cập trong tác phẩm Bồ Tát Địa
(Bodhisattva-bhūmi) của Ngài Vô trước, như nói rằng “chân lí là
một, trong ý nghĩa là không mâu thuẫn”, vì những điều khác thì dường như là chống
trái liền sau đó. Trong đây cũng nói về chân lí có hai là tục đế và chân đế.[3] Tuy nhiên, đây thực chất cũng chỉ là sự phân
chia rộng rãi dựa trên căn bản là những chân lí đã nói trước.
Ngoài
ra còn có nhiều khái niệm chân lí khác nhau được đề cập nữa, như là Tam Pháp ấn,
Tứ Pháp ấn, đều là những điều chân thật rốt ráo ở đời. Một người Phật tử nếu
không hiểu và chấp nhận những sự thật này thì người đó không thể được gọi là một
Phật tử được. Ba Pháp ấn hay Bốn Pháp ấn đó còn được gọi là các dấu ấn Phật
pháp. Chúng là:
Tam Pháp ấn:
Chư hành vô thường (Các pháp hữu vi đều vô thường)
Chư pháp vô ngã (Các pháp không có ngã thể)
Niết bàn tịch
tịnh (Niết bàn là an lạc)
Tứ Pháp ấn:
Vô thường (Nhất thiết hành vô thường)
Khổ (Nhất thiết hành khổ)
Vô ngã (Nhất thiết pháp vô ngã)
Niết bàn (Niết
bàn tịch diệt)
Do
vô minh và tham ái, loài người phải chịu lấy khổ đau trong tam giới. Do vậy Đức
Phật đã đi tìm chân lí để giải thoát giác ngộ và chỉ dạy cho chúng sanh. Nếu
như gốc của khổ là do vô minh thì về mặt nguyên tắc có thể chỉ dạy cho chúng
sanh thấy được chân lí sự thật. Tuy nhiên, vì tham ái đóng một vai trò quan trọng
chi phối cái tâm nhận thức đúng đắn. Chính cái tham ái này chi phối đã khiến
cho tâm con người chấp thủ hay bám víu. Do đó về mặt nguyên tắc là phải loại trừ
cả tham ái và chấp thủ. Có thể nói rằng, nếu như chỉ có vô minh thôi thì rất dễ
để chỉ ra rằng chân lí là như thế, như thế; nhưng do tham ái chi phối, con người
đã không thể nhận ra chân lí để giải thoát khổ đau. Do vậy mà trong Đạo Phật
chúng ta không tìm thấy nhiều các vấn đề mô tả về chân lí hay thực tại mà chủ yếu
là những chỉ dẫn để đi trên con đường đó.
[1] Sự thật chỉ có một,
Không sự thật thứ hai,
Người hiểu biết tranh luận,
Với người có hiểu biết,
Nhưng chân thật họ khen,
Chỉ sự thật của họ,
Do vậy bậc Sa-môn,
Không cùng nói một lời. (Kinh Tập, kệ 884, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch)
Không sự thật thứ hai,
Người hiểu biết tranh luận,
Với người có hiểu biết,
Nhưng chân thật họ khen,
Chỉ sự thật của họ,
Do vậy bậc Sa-môn,
Không cùng nói một lời. (Kinh Tập, kệ 884, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch)
[2]
Trung Quán Luận, XXIV 8-10.
[3]
Ian Charles Harris, The Continuity of
Mādhyamaka and Yogācāra in
Indian Mahāyāna Buddhism, (Leiden: E.J. Brill, 1991),
87-88.
Wednesday, 23 January 2013
Thăm lại chùa Già Lam

Kể từ khi rời xa chùa Già Lam rồi
lên vùng cao nguyên, sau đó ra nước ngoài du học, hôm nay cũng là lúc chương
trình học đã hoàn mãn, tôi có dịp trở lại mái chùa xưa. Ngôi chùa mà khi xưa
tôi đã tá túc và tu học ở đây hơn 4 năm trong chương trình cử nhân Phật học, Học
viện Phật giáo Việt Nam khóa IV tại Tp Hồ chí minh.
Monday, 3 December 2012
Đạo đức
Đạo đức được giải thích một cách rộng
hơn và có ý nghĩa hơn như sau:
Đạo là tôn giáo. Đức là đức tính tốt
đẹp, cũng gọi là đạo đức. Bởi vì để giữ gìn được đạo đức tốt đẹp thì cần phải
có đạo. đó là niềm tin, lẽ phải, lối sống, phong cách. Một đời sống hiền hòa tốt
đẹp có ý nghĩa cần phải có đạo. chỉ có đạo mới có thể giữ gìn nhân cách con người
trong sáng thanh cao được. nếu có đức mà thiếu đạo thì đức đó thiếu kim chỉ
nam, thiếu định hướng và thiếu mục đích hướng đến. hơn nữa, sống ở đời nếu chỉ
quan niệm đạo đức thông thường thì khó lòng giữ gìn được vì những chuyển biến
cũng như áp lực của nhu về danh vọng địa vị, giàu sang, công việc nên đạo đức
khó mà giữ được. chỉ có đạo mới hướng con người đến chỗ hoàn thiện và cứu cách.
Đây là ý nghĩa của đạo đức vậy.
Sunday, 23 September 2012
Kỷ niệm 8 năm ngày du học Ấn Độ
Hôm nay là đúng 8 năm kể từ khi sang Ấn Độ du học. Nhớ lại cái ngày máy bay xuất phát từ Tp Hồ Chí Minh đi Ấn Độ vào buổi sáng 23 tháng 9 năm 2004 và đến New Delhi (Ấn Độ) vào khoảng 2 giờ sáng hôm sau. Thực ra từ Việt Nam sang New Delhi không xa lắm nhưng vì không có chuyến bay trực tiếp từ Việt Nam nên chúng ta thường phải quá cảnh qua các nước khác, rồi phải chờ đợi mới được lên chuyến bay tiếp theo.
Subscribe to:
Posts (Atom)