Hai nước Cộng hòa Sakya và Koliya
nằm trên hai phía của dòng sông Rohiṇī. Các thành viên thống trị của hai
vương quốc này được gọi là các rājās, và người thống lãnh các rājās này được gọi
là Maharājā. Cả hai vương quốc đều có quyền tự trị trên phạm vi lãnh thổ của
mình. Tuy nhiên, các tiểu vương quốc này không hoàn toàn độc lập như vương quốc
Vesālī, bởi vì cả hai đều là những nước chư hầu của quốc gia láng giềng hùng mạnh
Kosala.
Người dân của hai vương quốc Sakya và
Koliya đều là những người thuộc dòng dõi Chiến sĩ (khattiyas) thuộc bộ tộc
Ādicca (Ikśvāku) trong vương triều mặt trời. Do không có dòng tộc nào khác
trong vùng sánh ngang với họ, do đó mà họ chỉ kết thân với nhau. Cả hai dòng tộc
này đều rất tự hào về sự tinh khiết trong việc truy trì một dòng máu hoàng tộc
của họ và luôn giữ gìn truyền thống hôn phối trong phạm vi dòng dõi này từ lâu
đời. Chẳng hạn, người cô của vua Tịnh Phạn (Suddhodana) được gả cho vua Anjana
của nước Koliya. Rồi con gái của họ là Hoàng hậu Maya (Mahāmāyā) và
Ma-ha-ba-xà-ba-đề (Mahāpajāpati Gotamī) đều kết hôn với vua Tịnh Phạn, người đứng
đầu bộ tộc Sakya. Tương tự, Da-du-đà-la (Yashodhara) là con gái của vua
Suppabuddha (Suppabuddha là con của Anjana), được gả cho Thái tử Sĩ-đạt-đa (Siddhattha). Do vậy, cả hai dòng tộc này đếu có
mối quan hệ hôn nhân với nhau từ thời xa xưa.
Mặc dầu vậy, thỉnh thoảng vẫn có những
rạng nứt giữa hai dòng tộc mà đôi khi biến thành thù địch lẫn nhau.
Nông nghiệp là nghề truyền thống của
hai bộ tộc này. Vùng đất thấp của lãnh thỗ Tarāī nằm dưới chân dãy núi Hy-mã-lạp-sơn
(Himalayas) hùng vĩ này rất màu mỡ. Dòng sông Rohiṇī êm đềm luôn mang nước từ dãy
Hy-mã-lạp-sơn và tưới tắm đầy đủ cho những vùng nông nghiệp trù phú của hai quốc
gia. Vì thế mà đời sống người dân trong cả hai vùng lãnh thổ này đều rất thịnh
vượng.
Ban đầu, khi dân số trong hai quốc
gia còn ít, sông Rohini do đó đã cung cấp đầy đủ nước cho việc phát triển nông
nghiệp. Tuy nhiên, dần dà, khi các dãi đất lồi lõm bao quanh con sông đã được
phát triển thành những vùng nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của dân
số. Nước sông do đo không còn đủ để cung cấp cho sự gia tăng đó nữa. Sự thiếu hụt
nguồn nước đã bắt đầu trở thành mối xung đột giữa hai quốc gia.
Người dân ở hai bên bờ sông bắt đầu
lên án nhau vì sử dụng quá nhiều nước lấy từ dòng sông. Rồi họ bắt đầu thực hiện
các thỏa ước về việc san sẻ nguồn nước, tuy nhiên việc vi phạm nó cứ lặp đi lặp
lại.
Khi dân số tiếp tục tăng lên thì đất
đai dành cho nông nghiệp cũng do đó tiếp tục bị thu hẹp lại, và người dân ở
phía thượng nguồn của con sông hiếm khi có đủ nước để dùng. Dòng sông Rohini
lúc bấy giờ chỉ còn rất ít nước khi nó chảy đến các vùng thủ đô của hai quốc
gia. Mặc dầu cả hai nước cộng hòa này đã cùng nhau xây dựng một con đập chắn
ngang dòng sông để trữ nước, nhưng mực nước của nó cũng rất cạn mỗi khi mùa hè
tới.
Khủng hoảng đã bắt đầu lan tỏa
trong suốt thời gian Phật còn tại thế. Chỉ mới vào tháng 5 thôi, mực nước của
con sông đã trở nên cạn cợt. Những cánh đồng lúa của cả hai phía sông đã bị
cháy xém bởi sức nóng của mùa hè. Vì không đủ nước, những cánh đồng lúa đã bị
hư hoại. Nước còn lại trong ngăn đập chỉ đủ để tưới cho một phía của con sông;
phía còn lại phải chịu cảnh khô hạn.
Nếu như nước trong con đập được chia
đồng đều cho cả hai bên thì mùa màng của cả hai phía đều khô héo vì thiếu nước.
Còn nếu tất cả nguồn nước đó được dùng cho một bên thôi thì mới cứu được mùa
màng cho nó.
Vì thế, những người nông dân của cả
hai quốc gia đã họp với nhau để bàn thảo về việc chia sẻ nguồn nước ít ỏi trong
hồ chứa nước. Tuy nhiên, bên nào cũng khăng khăng rằng, mùa màng của họ phải
được giữ vững, và người nông dân của phía bên kia cũng muốn phần tốt cho mùa
thu hoạch của họ. Chẳng ai chịu nhượng bộ ai. Cứ thế, những tranh cải bắt đầu
nổ ra và nóng dần lên. Họ trao đổi với nhau bằng miệng lưỡi ác độc, rồi đánh
nhau. Họ chưởi bới nhau, nhục mạ những vị Thầy của họ, rồi tổ tiên của những
tộc trưởng.
Những người nông dân sau đó thông
báo lại cho những ông chủ của họ. Sau khi nghe nhục mạ tổ tiên của mình, sự thù
địch giữa hai cộng đồng càng tăng lên.
Những tranh cải rồi đến tai những
quan lại của hai quốc gia, rồi các vị thái tử và vua chúa. Khi những vị hoàng
tử trẻ tuổi của cả hai bên nghe được sự nhục mạ về tổ tiên của họ, họ rơi vào
phẫn nộ và thề sẽ trả thù. Bị lửa sân đốt cháy, họ tụ tập lại hai phía bờ sông,
mang theo đủ các vũ khí, và rồi thách thức đánh nhau. Tình huống đã trở nên
căng thẳng và khả năng về cuộc chiến dường như sắp xảy ra.
Khi Đức Phật biết được cuộc chiến
sắp sửa nổ ra, Ngài liền đích thân đến đó. Khi nhìn thấy con người mà cả hai
bên đều tôn kính và ngưỡng mộ đi đến, các chiến binh của cả hai phía đều hết
sức bối rối. Họ vội bỏ vũ khí và thành kính đảnh lễ Ngài. Đây là cách truyền
thống thể hiện lòng tôn kính đối với Đức Thế Tôn khi Ngài còn tại thế.
Mỗi khi vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) của
nước Kosala (Kiều-tát-la) đi đến đảnh lễ Đức Phật, ông thường để lại những vật
dụng như là gươm đao, áo mão, dù lọng, quạt, và giày dép ở phía bên ngoài cùng
với đoàn tùy tùng của mình trước khi đi vào thiền thất của Phật.
Đức Phật đã ngồi vào chỗ đã soạn sẵn
trên nền đất trống cạnh bờ sông. Dân chúng hai vương quốc Sakya và Koliya đều
đảnh lễ Ngài và cung kính ngồi xuống một bên. Đức Phật đã giải thích cho họ
rằng, máu của họ còn quan trọng hơn nhiều so với nước của con sông. Họ không
nên gây đổ máu. Thay vào đó, nên tìm một giải pháp để chia sẽ dòng nước trong
hòa bình. Đức Phật là một người kiến tạo hòa bình với đầy lòng nhân từ. Ngài
không cho nó là đúng khi mạng người bị mất đi chỉ vì việc tìm kiếm những lợi
ích vật chất tầm thường.
-Bản chú giải Kinh Tập, số 2.362
So với nước láng giềng hùng mạnh
Kosala, cả hai nước cộng hòa Sakya và Koliya đều là những nước nhỏ và yếu. Họ
đã từng giao nộp lãnh thổ của họ cho vương quốc Kosala. Chính vì mối bất hòa
này, có nhiều khả năng họ sẽ bị mất quyền tự trị của mình nữa.
Nếu hai bộ tộc Sakya và Koliya đánh
nhau, thì cả hai đều bị diệt vong. Còn nếu như họ giao hảo với nhau, thì cả hai
đều tăng cường được sức mạnh hòa hợp. Thủ lĩnh của vương quốc Kosala sẽ không
thể bành trướng thêm nữa con đường chinh phạt của họ. Tuy nhiên, nếu họ giữ
vững mối giao hảo, thì họ thậm chí hoàn toàn có thể tự giải phóng mình khỏi sự
thống trị của vương quốc Kosala. Biết rõ điều này, Đức Phật đã giảng dạy cho họ
những lợi ích của việc duy trì sự hòa hợp.
Đức Phật biết rằng, xung đột đã trở
nên căng thẳng vì sự thiếu hiểu biết lẫn nhau. Những người nông dân đã phỉ báng
tổ tiên các rājās (lãnh tụ) của nhau. Nhưng các rājās thì lại được báo cáo là những rājās kia đã phỉ báng tổ tiển của họ. Nếu
sự việc đó mà được thông báo đúng đắn rõ ràng cho các rājās của cả hai phía rằng, những người nông dân thiếu
trách nhiệm là những người có lỗi, họ nên khiển trách những người nông dân của
họ, thì sự việc sẽ được kết thúc ở đó; sự cố đó không nên đưa đến nguy cơ đổ
máu. Cả hai nước nên duy trì sự hòa hợp.
Biết rất rõ những sự việc thường xảy
ra như thế, Đức Phật đã mô tả nó trong một câu chuyện Tiền Thân của Ngài. Các
sự việc đôi khi càng trở nên dễ hiểu bằng việc kể về một câu chuyện. Chính vì
thế, Đức Phật đã thuật lại câu chuyện tiền thân Duddubha Jataka (tiếng động
mạnh) để mô tả cái cách mà một người ngu đã tự làm hại mình khi trở thành nạn
nhân của niềm tin mù quáng. Tuy nhiên, người trí chỉ muốn tìm kiếm chân lí và
tự cứu mình thoát khỏi khổ nạn.
-Chuyện Tiền Thân Duddubha Jataka (tiếng động mạnh)
Chuyện kể rằng, có một con thỏ khi
đang nằm nghỉ dưới gốc một cây táo, thì bất ngờ một trái táo chín rơi xuống đất
gần chỗ nó đang nằm. Tiếng động của trái táo rơi xuống đất khiến nó giật mình.
Vì hốt hoảng, nó liền chạy khỏi nơi đó. Nó thông báo cho tất cả những con vật
khác khi nó gặp trên đường bỏ chạy rằng, trời sụp xuống rồi, và quả đất thì
đang nứt ra. Tất cả các loài thú khác như là, thỏ, nai, heo, linh dương, trâu,
bò, cọp, voi, v.v., sau khi nghe thông tin đó thì tin liền. Chúng bắt đầu bỏ
chạy trong hoảng loạn. Trong cuộc tháo chạy vì sợ hãi này, chúng đã lao mình vào
đại dương phía trước khu rừng rậm và bị chết chìm dưới biển.
Khi con sư tử chúa, là vua của cánh
rừng, thấy được sự nguy hiểm này, liền chặn những con thú đang dẫm đạp lên nhau
mà chạy này, rồi cảnh báo cho chúng biết. Nó bảo rằng, “Nào, chúng ta hãy đi
đến địa điểm nơi mà con thỏ đã nghe thấy tiếng động khi quả đất vỡ ra.” Tất cả
các con thú đều đi cùng với con thỏ kia đến chỗ cái cây nơi mà con thỏ đã nằm
nghỉ. Khi chúng nhìn thấy trái táo đã rơi rụng, chúng nhận ra ngay sự thật và
hoàn hồn trở lại.
Khi một ai đó mù quáng tin tưởng vào
những lời đồn đại và rồi hành động thiếu suy nghĩ thì người đó sẽ tạo ra tai
hại lớn. Cho thấy rõ điều này, Đức Phật đã nói như sau:
Appatvā
padaviññāṇaṃ, paraghosānusārino;
Panādaparamā
bālā, te honti parapattiyā.
(Jātaka 1.4.322, Duddubha Jātaka)
Nếu tự mình không hiểu rõ sự
thật, khiến hướng theo những tuyên bố của người khác và theo đuổi một cách mù
quáng, là một kẻ ngu si bất cẩn.
Đức Phật giải thích rằng, vào thời
điểm khi mà lời nhục mạ qua lại của những người nông dân ngu muội đến tai những
ông chủ của họ, đến tai những vị quan lại, quần thần, vua chúa, và những thái
tử nóng nảy, tất cả họ đều bị hiểu sai và rồi sẵn sàng để tự hủy hoại mình. Nếu
họ bình tỉnh kiểm chứng sự thật, thì việc họ cần làm là khiển trách những người
nông dân của họ, và cuộc tranh cải sẽ chấm dứt ngay ở đó.
Cuộc tàn sát
bộ tộc Sakya
Vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) của vương
quốc Kosala là người thuộc dòng dõi Sát-đế-lợi (chiến sĩ), đồng thời cũng là
lãnh chúa của vương quốc Sakya. Tuy nhiên, những người Sakya của bộ tộc mặt
trời này thì được cho là thuộc giai cấp cao hơn. Người dân Sakya rất tự hào về
giai cấp cao quý của họ. Ngay cả vua Pasenadi là người cai trị của họ cũng bị
xem là thuộc giai cấp thấp hơn. Điều này khiến vua Pasenadi vô cùng bực mình.
Ông ta thấy sự tự hào về giai cấp của bộ tộc Sakya là không chấp nhận được.
Nhưng ông không thể làm gì được. Mặc dầu ông đã chinh phục vương quốc Sakya,
nhưng cũng không làm thế nào để vượt qua được hệ thống giai cấp được thiết lập
quá mạnh mẽ này.
Nhà vua nảy sinh một ý nghĩ. Không
có hoàng hậu nào thuộc giai cấp cao trong cung điện của ông. Ông suy nghĩ, sẽ
là rất tốt nếu ta cưới một công chúa của vương quốc Sakya và rồi ban tặng cho
nàng một tước hiệu chánh cung hoàng hậu. Rồi con của hoàng hậu sẽ trở thành
đông cung thái tử. Khi thái tử kế thế ngai vàng, thái tử và hàng hậu duệ sẽ
được xem là những người thuộc dòng dõi chiến sĩ cao cấp. Vì vậy, những người Sakya
sẽ không còn cho rằng họ thuộc giai cấp cao hơn dòng dõi của Kosala.
Ngoài ra, còn có một sự kiện khác
nữa. Vua Pasenadi nhìn thấy hàng trăm vị Tăng đến nhà của các đại thí chủ như
Cấp-cô-độc (Anāthapiṇḍika),
Tiểu Cấp-cô-độc (Cūḷa Anāthapiṇḍika), nữ thí chủ Visākhā và Suppavāsā
để nhận thực phẩm cúng dường. Nhà vua cũng muốn làm người dâng cúng thức ăn cho
chư Tăng. Ông thỉnh Phật gởi 500 vị Tăng hàng ngày đến khất thực. Các Tỳ-kheo
đi đến cung điện của nhà vua để khất thực nhưng họ đã không đến khất thực nữa
chỉ vài ngày sau đó. Còn ở những nơi cúng dường khác, các thí chủ đều có mặt
tại đó và thành kính hiến cúng thực phẩm sau khi các Tỳ-kheo đã an tọa. Điều
này không thể diễn ra ở tại cung điện. Nhà vua quá bận rộn nên không thể có mặt
hàng ngày để cúng dường thức ăn cho các Tỳ-kheo được. Hoàng hậu cũng không thể
làm tròn bổn phận này một cách thỏa đáng được. Chính vì thế, các Tỳ-kheo không
đến cung điện nữa. Vua Pasenadi nghĩ rằng, nếu ông nuôi nấng một công chúa
thuộc bộ tộc Sakya và cho trở thành hoàng hậu, thì hoàng hậu sẽ rất vui mừng
tiếp đón các Tỳ-kheo và quan tâm chu đáo, vì bà ta là một thành viên của bộ tộc
Sakya mà Đức Phật cũng thuộc bộ tộc này khi Ngài còn là thái tử. Rồi các
Tỳ-kheo sẽ đến cung điện hàng ngày để khất thực.
-Pháp Cú chú giải, 1.46, Viṭaṭūbhavatthu
Suy nghĩ như thế, vua Pasenadi đã
gởi một tối hậu thư đến vương quốc Sakya yêu cầu cưới một công chúa của nước
này. Bức thư này đã gây xôn xao trong bộ tộc Sakya. Vua Pasenadi cũng là hoàng
đế của nước họ, và là một vị chiến binh hùng mạnh. Nếu bộ tộc Sakya từ chối lời
đề nghị này thì ông ta sẽ nổi giận. Lãnh thổ của ông rất rộng lớn và quân đội
thì hùng mạnh. Nếu ông ta tấn công, bộ tộc Sakya sẽ bị đập tan, và họ sẽ mất đi
thậm chí quyền tự trị của họ.
Những người Sakya cũng rất ý thức về
những chi tiết đau đớn về một sự việc tương tự xảy ra trong quá khứ. Nếu từ
chối lời yêu cầu của người thống trị vương quốc Kosala, thì họ sẽ đối mặt với
khả năng đáng sợ lặp lại trong lịch sử của chính họ. Họ không muốn nhìn thấy
quốc gia của mình bị tiêu diệt thêm một lần nữa. Tuy nhiên, họ không thể chấp
nhận điều kiện của vua Pasenadi được. Làm sao họ có thể đem bất kì một công
chúa nào của vương quốc Sakya gã cho ông ta được? Ông ta là một người
Sát-đế-lợi giai cấp thấp. Niềm tự hào về giai cấp cao quý của người Sakya sẽ
khiến họ không nuốt trôi điều nhục nhã này.
Vì thế, một hội đồng của các bô lão
của bộ tộc Sakya đã tập hợp lại để thảo luận về cuộc khủng hoảng này. Sau nhiều
tranh luận và tư vấn, họ quyết định chọn ý kiến của trưởng giả Mahānāma là đem một
người nữ tỳ trong nhà của ông có tên là Vāsabhakhattiyā
(Mạt-Lợi) giả làm công chúa rồi sau đó đem gã cho vua Pasenadi. Những người
Sakya cũng quyết tâm luôn luôn giữ kín sự thật về gốc gác của tỳ nữ này. Họ cố
thuyết phục những sứ giả của vua Pasenadi là người nữ tỳ này là một công chúa của
nước Sakya bằng cách để cho họ nhìn thấy và tin rằng Mahānāma và Vāsabhakhattiyā cùng ăn chung với
nhau trong một mâm. Các sứ giả hoàn toàn bị thuyết phục.
Mạt-Lợi sau khi được gã cho vua Pasenadi
đã nhanh chóng trở thành một chánh cung hoàng hậu. Không lâu sau đó, bà sinh hạ
một hoàng tử và đặt tên là Viṭaṭūbha
(Lưu Ly). Khi thái tử Lưu Ly lớn lên, thái tử đã xin mẹ đưa trở về thăm quê ngoại.
Vì nghe bạn bè kể nhiều câu chuyện hấp dẫn về bên ngoại, cũng như cho thấy những
món quà nhận được từ bên ngoại, nên thái tử càng háo hức được gặp gỡ những người
thân và nhận quà từ tay họ. Tuy nhiên, phu nhân Mạt-Lợi luôn tìm cách để tránh
cuộc trở về. Bà biết rõ rằng, nếu như vua Pasenadi khám phá ra bí mật về gốc
gác của mình thì hậu quả thật khó lường.
Khi thái tử Lưu Ly lên 16 tuổi,
thái tử cương quyết sẽ về thăm, ngay cả khi mẹ thái tử không có đi cùng. Phu
nhân Mạt-Lợi đã gởi một bức thư cho Mahānāma nói rằng thái tử Lưu Ly muốn về
thăm Ca-tỳ-la-vệ. Họ nên quan tâm và đối xử với thái tử một cách đúng mực để giữ
điều bí mật không bị phơi bày bằng mọi cách. Những người Sakya đã xử lí tình huống
này cũng rất khéo léo. Họ chào đón và tiếp đãi thái tử ngang bằng vị trí của một
vị vua. Tuy nhiên, họ đã khéo léo gởi những thái tử trẻ tuổi hơn thái tử Lưu Ly
ra khỏi thành phố để mà, mặc dù thái tử Lưu Ly có chào hỏi những người lớn tuổi
hơn mình, vẫn không có ai phải chào hỏi lại thái tử.
Thái tử Lưu Ly vô cùng hoan hỷ với
lòng hiếu khách có thừa này trước khi trở về lại nước Xá-vệ (Sāvatthi). Trên đường
ra về, một người tùy tùng báo tin rằng, thái tử đã bỏ quên thanh gươm, và rồi
quay lại để lấy nó. Khi trở lại, anh ta đã kinh ngạc khi thấy chiếc ghế mà thái
tử từng ngồi đang được chùi rửa bằng sữa pha loãng. Người nữ tỳ vừa lau rửa nó
vừa chửi rủa lớn tiếng rằng, Viṭaṭūbha, là con của một người nô tỳ, đã ngồi trên chiếc ghế
vương giả này và làm nhơ nhớp nó. Do đó, phải rửa nó bằng sữa mới có thể sạch
được.
Người tùy tùng biết được toàn bộ sự
thật về phu nhân Mạt-Lợi từ người nữ tỳ này, liền trở về thuật lại cho thái tử
Lưu Ly nghe. Sau khi nghe xong, ngọn lửa hận thù bùng phát lên trong tim thái tử.
Thái tử Lưu Ly thề rằng khi lên ngôi sẽ tiêu diệt bộ tộc của những thái tử dòng
Sakya này với những con người quá tự hào về giai cấp của họ. Thái tử Lưu Ly còn
thề sẽ rửa chiếc ghế mà họ rửa nó bằng sửa bằng chính máu lấy từ cái cổ của họ.
Sau khi về lại Xá-vệ, bí ẩn về gốc
gác của phu nhân Mạt-Lợi được phơi bày. Vua Pasenadi vô cùng tức giận. Ông tước
bỏ vương vị, đặc ân và những bảo bọc từng ban cho hoàng hậu và thái tử. Cả hai
giờ đây chỉ được phép ngang bằng với những người nô lệ bình thường mà thôi. Tuy
nhiên, ngọn lửa tức giận trong tim của thái tử Lưu Ly thậm chí còn lớn
hơn.
Khi Đức Phật biết được chuyện này,
Ngài đã kêu gọi vua Pasenadi không nên đặt tầm quan trọng cho những địa vị cao
hay thấp chỉ đơn thuần là dựa vào giai cấp. Lấy ví dụ về chuyện tiền thân Kaṭṭhahāri Jataka (nàng lượm củi), Đức
Phật đã nói rằng, người con gái sau khi cưới nhà vua thì trở thành hoàng hậu,
dù cho người con gái ấy có là con gái của một người lượm củi. Đứa con trai khi
được cô ta sinh ra sẽ trở thành vua, cũng giống như vua Kaṭṭhavāhana trong câu chuyện tiền thân
này vậy.
-Chuyện tiền thân 1.1.7, Kaṭṭhahāri Jātaka
Giai cấp đã làm được gì ở đây? Phu
nhân Mạt-Lợi (Vāsabhakhattiyā) là vợ của vua, không phải là một người nô lệ.
Thái tử Lưu Ly (Viṭaṭūbha) là đứa con trai hợp pháp của
vua. Tại sao lại cho rằng thái tử là giai cấp thấp? Vua Pasenadi đã nguôi giận
từ những lời nói này của Phật, và rồi phục hồi lại nguyên chức và danh dự cho
hoàng hậu Mạt-Lợi và thái tử Lưu Ly.
Nhưng ngọn lửa thù hận cháy trong
tâm khảm của thái tử Lưu Ly chưa được dập tắt. Thái tử Lưu Ly vẫn âm mưu toan
tính với người thủ lĩnh đại binh là Dīgha Kārāyana (Khổ Mẫu), và, cơ hội đầu
tiên là lật đổ ngai vàng. Vua Pasenadi đã trốn thoát để cứu lấy thân mình rồi
chạy đến thành Vương-xá (Rājagaha) để cầu cứu sự giúp đỡ của người con rễ của
mình là vua A-xà-thế (Ajātasattu). Khi ông ta đến nơi thì cổng thành đã đóng cửa.
Ông phải ở suốt đêm bên ngoài cổng thành, và vì kiệt sức ông đã chết trước khi
trời sáng. Tuyên bố lên ngôi của thái tử Lưu Ly đã giải phóng tất cả những cản
trở. Với thù hận luôn đốt cháy trong mình, ông ra lệnh cho đại quân tiến thẳng
tới thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu).
Khi Phật biết ra cuộc tấn công đã
tiềm tàng này, Ngài thân hành đến ngồi dưới gốc cây khô dưới ánh nắng trời chiều
gần thành Ca-tỳ-la-vệ. Khi vua Lưu Ly nhìn thấy Đức Phật, ông cảm thấy ái ngại.
Bởi vì, nhờ Phật mà ông với mẹ mình được vua cha phục hồi thân phận ở hoàng
cung. Lúc bấy giờ, ông hỏi rằng, “Cớ sao Đức Thế Tôn lại ngồi dưới gốc cây khô
phía trước những người Sakya như thế? Mong Ngài hãy ngồi dưới bóng cây đa mát mẽ
trong phạm vi bảo bọc của chúng con.” Đức Phật liền trả lời rằng, “Đại vương,
bóng mát mà người thân chở che đang sắp sửa biến mất.” Lưu Ly hiểu ra rằng Đức
Phật ngồi đó là để bảo vệ người thân dòng họ Sakya. Vì thế, ông đã cho quân rút
lui và quay lại thủ đô.
Vài ngày sau, ông lại dẫn độ đội
quân hùng mạnh thẳng tiến đến vương quốc Sakya. Tuy nhiên, ông vẫn thấy Đức Phật
ngồi ở đó và lại dẫn quân trở về. Điều đó đã diễn ra tới 3 lần như thế.
Lần thứ tư, Lưu Ly quyết lập một cuộc
tấn công vô cùng mạnh mẽ, xác định là phải vượt qua bất kì sự can gián nào để rửa
mối hận gây ra bởi bộ tộc Sakya. Đức Phật biết rõ quyết tâm của ông và cũng biết
rằng thời khắc đã chín muồi cho những nghiệp quả mà bộ tộc Sakya đã gây tạo. Vì
thế, Ngài không can thiệp nữa.
Vua Lưu Ly ra lệnh cho quân đội của
mình không được giết những người Sakya trong cung điện của Mahānāma. Tất cả những
người khác phải giết không thương tiếc. Sau cuộc tàn sát đẫm máu này, Lưu Ly
chuẩn bị để lên đường trở về Xá-vệ cùng với trưởng giả Mahānāma và quyến thuộc
của vị trưởng giả mà ông bắt giữ. Sáng hôm sau, Lưu Ly yêu cầu Mahānāma cùng ăn
sáng với mình. Có lẽ ông đã nắm giữ niềm kiêu hãnh về giai cấp của trưởng giả
Mahānāma và quyến thuộc của ông để ép buộc họ phải cùng ăn chung một mâm.
Mahānāma không muốn tuân theo, nên ông mượn cớ rằng muốn được tắm rửa dưới hồ
nước gần đó trước khi ăn. Ông lặn xuống hồ nước và không nổi lên nữa.
Tiếp tục cuộc hành trình trở về lại
Xá-vệ, khi Lưu Ly cùng đội quân đi đến dòng sông Aciravatī thì trời tối. Ông và
quân đội của mình cắm trại nghỉ đêm trên bờ sông. Trong khi đang ngủ say thì bổng
nhiên một dòng thác lũ bất ngờ đổ đến từ lòng sông. Nước sông dâng lên cao cuốn
trôi Lưu Ly và đội quân của ông trong dòng nước xoáy và giết chết họ.
-Pháp Cú lược giải 1.46, Viṭaṭūbhavatthu
Không có sự ghi chú lịch sử nào về
những gì xảy ra đối với các thành viên khác trong gia đình của trưởng giả
Mahānāma. Một số họ chắc hẳn đã chạy thoát bởi vì nhiều người trong số họ đã
thiết lập cuộc sống sau này ở Vediśāgiri ở miền Nam. Họ trở thành những thương
gia, rồi con gái của một trong những con cháu của họ là Sakyakumarī Vediśādevī
sau đó trở thành người vợ thứ nhất của vua A-dục trước khi A-dục trở thành đại
đế.
Trong cuộc tàn sát bộ tộc Thích-ca ở
thành Ca-tỳ-la-vệ gây ra bởi quân đội của Lưu Ly, một số người trong bộ tộc
Thích-ca đã tự cứu lấy mình bằng cách trốn thoát. Vì thế, vương quốc Sakya
không hoàn toàn bị tiêu diệt. Vài ngày sau cuộc tàn sát đó, Đức Phật cũng đã nhập
Niết Bàn tại Câu-thi-na (Kusinārā). Người dân của hai bộ tộc Sakya của
Kapilavatthu và Koliya của Rāmagāma sau đó cũng tuyên bố nhận một phần Xá-lợi
Phật và tôn thờ trong một đại tháp huy hoàng trong thủ đô sau đó của họ.
-Trường Bộ Kinh 2.239, Kinh Đại Bát Niết Bàn
Kinh Đại-bát-niết-bàn chứng minh rằng,
Lưu Ly không tàn sát tất cả những người thuộc bộ tộc Thích-ca, mặc dầu rõ ràng,
ông ta đã giết hại phần lớn trong số họ.
Qua những sự kiện này, chúng ta hãy
kiểm chứng xem có phải những cáo buộc cho rằng, chính lời dạy của Đức Phật chịu
trách nhiệm cho sự diệt vong của vương triều Sakya là đúng sự thật hay
không.
Có một thật tế quan trọng cần thấy
là, nước cộng hòa Sakya là một quốc gia nhỏ bé so với đế chế Kosala rộng lớn.
Chỉ trước khi cuộc tàn sát diễn ra bởi quân đội Lưu Ly thôi, có tới 500 hoàng tử
của cả hai quốc gia Sakya và Koliya trở thành Tỳ-kheo. Cũng trước thời gian
này, nhiều thanh niên của hai tiểu quốc này đã từ bỏ đời sống thế tục. Điều này
có lẽ đã không tạo nên sự khác biệt rõ ràng về sức mạnh tương đối của quân đội
hai nước. Ngay cả khi 500 vị hoàng tử này không xuất gia đi nữa, thì quân đội của
nước Kosala đã đủ hùng mạnh để triệt tiêu nước cộng hòa Sakya.
Một thực tế quan trọng khác nữa đó
là, Cộng hòa Sakya không hoàn toàn là một quốc gia độc lập giống như nước Cộng
hòa Vajjian (Bạt-kì). Nó chỉ là một tỉnh của vương quốc Kosala. Có rất nhiều
tình tiết trong Tam Tạng chứng minh rằng Cộng hòa Sakya là một phần của vương
quốc Kosala.
Khi Thái tử Tất-đạt-đa từ bỏ hoàng
cung để đi tìm chân lí, trước tiên Thái tử đã đi đến thành Vương-xá (Rājagaha),
thủ đô của nước Ma-kiệt-đà (Magadha). Ấn tượng bởi vẻ đẹp vương giả của người
thanh niên ẩn sĩ này, vua Bimbisāra (Tần-bà-sa-la, Bình sa vương) đã thân hành
đến gặp. Nhà vua hỏi Ngài là ai và muốn dâng một phần vương quốc của mình cho
Ngài. Thái tử Sĩ-đạt-đa liền trả lời:
Ujuṃ janapado rāja, himavantassa
passato;
Dhanavīriyena sampanno, kosalesu
niketino.
Trong lãnh thổ Tarāī thuộc vùng Hi-mã-lạp-sơn này, có một
ông vua có đầy đủ của cải và sức mạnh, đó chính là vua của vương quốc Kosala.
Ādiccā nāma gottena, sākiyā nāma jātiyā;
Tumhā
kulā pabbajitemhī, na kāme abhipatthayaṃ
-Kinh Tập 424-5, Pabbajjāsutta
Ông ta thuộc bộ tộc Mặt trời (Ādicca) và dòng dõi Sakya khi
sanh. Tuy nhiên, từ nơi dòng dõi đó, ta từ bỏ và tiến lên phía trước, không
tham đắm dục lạc.
Rõ ràng là, lãnh thổ của bộ tộc
Sakya là một phần của vương quốc Kosala. Vì thế, tất cả những người Sakya, thậm
chí cả vua, cũng đều được gọi là những người Kiều-tát-la (Kosalan).
Những người Sakya đều phải quy phục
vua của nước Kosala; tuy nhiên, họ rất miễn cưỡng khi phải bày tỏ lòng tôn kinh
đối với ông ta. Họ cảm thấy bực bội nhưng không làm gì được. Mặt khác, vua
Pasenadi kính lễ dưới chân Đức Phật, và Đức Phật cũng là người thuộc dòng dõi
Sakya khi sinh ra. Khi Phật hỏi ông ta lí do vì sao ông tỏ lòng tôn kính tột bực
như vậy, ông bảo rằng, ông tôn kính đảnh lễ dưới chân Phật vì Phật là Bậc giác
ngộ, giáo Pháp được Phật khéo giảng nói, và những đệ tử của Ngài đều thực hành
theo những điều đúng đắn. Cuối cùng, khi thiết lập một mối quan hệ cá nhân trực
tiếp với Phật, ông nói, “Đức Phật là một người Chiến sĩ và tôi là một người Chiến
sĩ; Đức Phật là một người Kosala và tôi cũng là một người Kosala.”
-Kinh
Trung Bộ 2.366-374, Kinh Pháp Trang Nghiêm
Rõ ràng là nước Cộng hòa Sakya là một
phần lãnh thổ của vương quốc Kosala, và vì thế, ông ta đã gọi Phật là một người
Kosala.
Ngoài ra, còn có một dẫn chứng mạnh
mẽ khác. Vua Pasenadi phải đi vi hành đến tất cả những nước chư hầu để kiểm tra
các vấn đề về an ninh. Ông cũng thường xuyên du hành đến nước Sakya. Trong một
chuyến vi hành như thế, ông đã viếng thăm một thị trấn gọi là Nagaraka thuộc nước
Cộng hòa Sakya cùng với Dīgha Kārāyana (Khổ Mẫu), là người chỉ huy quân đội nước
Kosala.
-Kinh
Trung Bộ 2.364-366, Kinh Pháp Trang Nghiêm
Sự có mặt của Khổ Mẫu trong suốt
chuyến vi hành này chỉ ra 2 điều: Thứ nhất, người thống trị vương quốc Kosala
phải có những căn cứ quân sự của mình ở mỗi nước thuộc địa. Những nước thuộc địa
này phải gánh chịu những khoản chi phí cho những đơn vị quân sự chiếm đóng của
Kosala. Do đó, vua của nước Kosala phải đảm bảo rằng những người đứng đầu tại mỗi
thuộc quốc này phải chăm sóc tốt cho quân đội của ông.
Thứ hai, ông phải đảm bảo rằng nước
thuộc địa không được bí mật tăng cường sức mạnh quân đội. Sự tăng cường sức mạnh
chỉ chấp nhận ở những nơi địa phương. Nếu không tuân thủ nó thì khả năng nước
thuộc địa sẽ có cơ hội để lật đổ. Sẽ rất là bình thường khi luôn ý thức cảnh
giác về mối nguy cơ tiềm ẩn và người chỉ huy chính là người phải có trách nhiệm
nghiên cứu khả năng xảy ra này. Vì thế, sẽ rất là quan trọng khi một người chỉ
huy như thế luôn đi cùng với vua trong những chuyến vi hành qua những thuộc quốc
như thế.
Trong một chuyến như thế, sau khi
vua Pasenadi đã hoàn thành công việc kiểm tra hành chánh trong thị trấn
nagaraka vào đầu buổi chiều thì quyết định đi thăm viếng công viên tại nơi đó
vào chiều tối. Ông bước vào chiếc xe ngựa của mình, cùng với những chiếc xe
khác, thẳng đến công viên.
Khi ông bước vào công viên, vẻ đẹp
tự nhiên, yên bình và tỉnh lặng của khuôn viên gợi ông nhớ lại cảnh thường
xuyên gặp Đức Phật trong một khung cảnh đẹp đẽ như thế. Mỗi khi Đức Phật trú lại
ở đâu cho dù chỉ một khoảnh khắc ngắn cũng làm cho cảnh trí ở đó trở nên đẹp đẽ
và lôi cuốn. Đức Phật đã nói rằng:
Gāme vā yadi vāraññe, ninne vā yadi vā thale;
yattha arahanto viharanti, taṃ bhūmirāmaṇeyyakaṃ.
Dù trong ở trong làng mạc, trong thung lủng, trong rừng
núi, hay trên đồi cao,
Ở
đâu có các vị A-la-hán, ở đó chính là nơi khả ái nhất.
-Pháp Cú 98, phẩm A-la-hán
Vua Pasenadi tin chắc rằng Đức Phật
đang ở gần đó. Ông đã hỏi Dīgha Kārāyana rằng phải chăng Đức Phật đang trú ở
vùng gần đây. Dīgha Kārāyana trả lời rằng, Đức Phật đang trú ở một thị trấn của
Sakya gọi là Medāḷupa,
chỉ cách đây 3 do tuần (yojanas). Vua Pasenadi rất vui mừng và thân hành đến gặp
Phật.
-Trung Bộ Kinh 2.4.365-366, Kinh Pháp Trang Nghiêm
Toàn bộ điều tự sự này chỉ ra rằng,
lãnh thổ của vương quốc Sakya nằm dưới quyền quản lí trực tiếp của vua
Pasenadi, vì thế nhà vua đã tự do đi lại mỗi khi ông muốn. Ông cũng không cần
phải báo tin cho bộ tộc Sakya, cũng không cần phải chờ quyết định của họ.
Dường như mối quan hệ giữa vương quốc
Kosala và Cộng hòa Sakya cũng giống như mối quan hệ giữa đất nước Ấn Độ và
chính phủ Anh quốc ở Delhi trong thời kì Anh quốc đô hộ vậy.
Nhà vua và quan thái thú có quyền tự
trị đối với các vấn đề hành chánh trong nước trong lãnh thổ của họ. Họ cũng duy
trì một lực lượng cảnh sát để quản lí địa phương nhưng họ không được phép duy
trì một lực lượng quân đội có thể đe dọa chính phủ Anh quốc. So với quân đội
hoàng gia của Delhi, sức mạnh của lực lượng cảnh sát của họ là không đáng kể. Nếu
quân đội Anh quốc xâm chiếm một nước công quốc với bất kì lí do gì, thì quốc
gia đó cũng không thể tự mình đối phó được với quân đội Anh quốc.
Tương tự, nếu người thống lãnh
vương quốc Kosala đem quân đội của mình tấn công nước chư hầu Sakya, thì người
Sakya cũng không thể đối đầu với lực lượng quân đội hùng mạnh của Kosala được,
vì quân lính ở đây chỉ là để đảm bảo vấn đề an ninh trong nước mà thôi. Điều
này rõ ràng là, nước Cộng hòa Sakya không thể nào kháng cự nổi quân đội Kosala
được, cho dù họ có chịu ảnh hưởng về tác động của giáo lí bất bạo động của Phật
hay không.
Tuy thế, vẫn có một quan niệm sai lầm
của nhiều người rằng, giáo lí của Phật chính là nguyên nhân dẫn đến sự diệt
vong của vương quốc Sakya. Tuy nhiên, rõ ràng là, lời Phật dạy đã giúp duy trì
sự hòa hợp giữa hai vương quốc Sakya và Koliya. Tương tự như vậy, Đức Phật đã
giảng dạy về 7 nguyên tắc bất bạo động của
người lãnh đạo dành cho những hoàng tử dòng họ Licchavi để họ luôn luôn đề
phòng cảnh giác bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của họ.
Nước Sakya đã trở thành chư hầu của vương quốc Kosala khi
nào?
Có một điều đã được xác định rõ
trong Tam Tạng Kinh điển là, Cộng hòa Sakya là một nước chư hầu yếu của đế chế
Kosala hùng mạnh, nhưng vẫn không rõ ràng là khi nào và như thế nào mà người
Sakya phải chịu sự khuất phục đó.
Chúng ta tìm thấy câu trả lời này
trong lịch sử các vương triều cổ đại của Miến Điện. Sự kiện này xảy ra vài thế
kỉ trước khi Phật ra đời. Người dân Sakya của nước Ca-tỳ-la-vệ và người dân
Koliya của Devadaha đều là những người thuộc dòng dõi Chiến sĩ của triều đại mặt
trời. Là những người nối dõi trực tiếp từ vua Ikśvāku, cả hai bộ tộc đều rất tự
hào về sự tinh khiết trong dòng máu hoàng tộc của họ và vì vậy chỉ chấp nhận kết
hôn với nhau. Họ cũng không để một người con gái nào trong bộ tộc của họ được
cưới hỏi những người thuộc bộ tộc khác, cũng không chấp nhận người phụ nữ nào đến
từ các bộ tộc khác.
Vương quốc Sakya và Koliya cũng là
những nước nhỏ trong thời kì này. Trong sự tương quan đó, vương quốc Kosala và
Pañcāla nằm ở phía Tây là những quốc gia hùng mạnh. Vua của nước Pañcāla quy phục
vương quốc Kosala. Niềm kiêu hãnh của ông cũng tăng lên dữ dội bằng sự gia tăng
quyền lực này của ông. Ông là người thuộc dòng Chiến sĩ, nhưng bị xem là thấp
hơn so với dòng dõi Sakya và Koliya. Với ham muốn có được dòng máu tinh khiết của
bộ tộc Ikśvāku để không bị xem là thấp hơn trong vấn đề giai cấp, ông đã gởi một
bức thư đến vương quốc Sakya và Koliya yêu cầu được kết hôn với một công chúa của
họ.
Theo thông lệ, một người sẽ cho
mình là may mắn nếu như con gái của người đó được gã cho một đấng quân vương
hùng mạnh và trở thành một nữ hoàng. Tuy nhiên, bộ tộc Sakya và Koliya lại quá
tự hào về sự tinh khiết của dòng dõi tổ tiên mình nên đã không chấp nhập yêu cầu
gã công chúa cho vua nước Pañcāla. Hậu quả là, vua Pañcāla nổi giận nên đã xâm
chiếm và tiêu diệt cả hai vương quốc.
Sau sự sụp đổ này, thủ lãnh của bộ
tộc Sakya là Abhirājā đã tìm đường trốn thoát, cùng với những người đồng hành của
ông, tiến về phía đông xuyên qua Kāmarūpa (Assam). Băng qua những dãy núi khó
khăn nhất giáp ranh với đất nước Miến Điện, họ đến được vùng đất giữa những con
sông Chindwin và Ayeyarwady.
Ở đây, họ tìm được nơi trú ẩn và
nhiều thứ hơn thế. Người dân tốt bụng ở đây đã ấn tượng sâu sắc với kinh nghiệm
lâu năm trong quản lí của con người mới tới này, vì thế họ đã chọn người thủ
lĩnh Abhirājā này làm người lãnh đạo của họ. Abhirājā đã xây dựng vương quốc Ta
Gaung, cách thành phố Shwebo ngày nay khoảng 70 dặm về phía Bắc. Những di tích
của thành phố cổ này nay vẫn còn được tìm thấy. Theo các sử gia Miến Điện, các
vương triều Miến Điện, cũng như lịch sử các dân tộc Miến, đã bắt đầu từ người
thống lãnh Abhirājā này.
-Hrman Nan Yarzawin (Glass Palace Chronicle -Tập niên sử Lâu Đài Pha Lê)
Cả hai vương quốc Sakya và Koliya đều
chịu khuất phục quyền thống lãnh của vương quốc Pañcāla sau khi Pañcāla và
Kosala sát nhập thành một vương quốc. sau đó, Pañcāla được chia thành hai vương
quốc trở lại. Vương quốc Kosala gần với Sakya và Koliya hơn là gần với Pañcāla,
vì thế cả hai đều trở thành thuộc quốc của Kosala. Có lẻ từ đó mà cả hai đã trở
thành những nước chư hầu của vương quốc Kosala.
Khi vua Pañcāla yêu cầu cưới công
chúa của Sakya và Koliya, và họ đã từ chối vì quá tự hào về giai cấp của họ, đã
làm cho ông ta nổi giận và tiêu diệt họ, thì lúc đó vẫn chưa có mặt lời dạy của
Phật. Vậy tại sao lúc đó cả hai nước này đều bị tiêu diệt? Tương tự, khi vua
Lưu Ly của Kosala tấn công họ, nguyên nhân của cuộc đánh chiếm chính là niềm tự
hào giai cấp của bộ tộc Sakya.
Kosala là một vương quốc hùng mạnh
và Sakya không thể ngang bằng với thế lực có thừa của họ. Vì thế, sự sụp đổ của
vương triều Sakya là điều chắc chắn. So với trường hợp trước đó, họ còn yếu thế
hơn, vì lúc này cả hai đều là những nước chư hầu. Trong tình trạng đó, sẽ không
ngạc nhiên khi quân đội Kosala tấn công và đập tan họ hoàn toàn. Vậy thì tại
sao Đức Phật và lời dạy của Ngài lại phải chịu trách nhiệm cho sự sụp đổ của
vương triều Sakya? Rõ ràng, đây chỉ là một cái cớ bậy bạ nhằm bôi nhọ giáo lí của
Phật.
Lí do mà vương quốc Sakya bị tiêu
diệt rõ ràng là do lòng tự cao tự đại về giai cấp và chủng tộc của họ. Trong suốt
thời gian trị vị của vua Abhirāja, họ đã từng bị tiêu diệt chỉ vì niềm tự hào
giai cấp, và rồi trong suốt thời kì của vua Lưu Ly, họ cũng đã bị giết hại cũng
cùng với lí do đó. Thế nhưng, ngày nay, bỏ qua những thật tế lịch sử này, một
cáo buộc hoàn toàn sai lầm đã được hư cấu lên. Ý đồ chính yếu của bất cứ ai đã
tạo nên và tuyên truyền sự hư cấu này cũng chính là để phỉ báng giáo Pháp của
Phật bằng mọi cách.
Toàn bộ giáo lí của Phật rõ ràng
cho thấy rằng, ngay cả nếu muốn hệ thống bốn giai cấp được chấp nhận, cũng
không nên dựa vào giai cấp khi sanh. Khi điều này xảy ra, nó sẽ là sự hạ thấp về
giáo Pháp của Phật, và là nguyên nhân gây tổn hại cho Phật Pháp. Theo như niềm
tin này, một cá nhân sống cuộc sống vô cùng xấu xa vẫn được tôn kính vì sinh ra
trong một gia đình thuộc giai cấp cao. Ngược lại, một con người sống có nhân
cách cao thượng vẫn bị xem là hạ tiện chỉ vì sinh vào gia đình thuộc giai cấp
thấp. Điều này có nghĩa rằng, giai cấp của một gia đình có vai trò quan trọng
hơn đời sống của một con người. Để từ bỏ cái nhận thức nguy hại này, và để thiết
lập lại giáo Pháp thanh tịnh, Đức Phật đã nhấn mạnh rằng cá nhân sẽ trở thành
cao hay thấp, sang hay hèn, vinh hay nhục, không phải là dựa vào giai cấp của
người đó, mà là dựa vào những căn bản về nghiệp quả và đức hạnh của người
đó.
Tuy nhiên, những người Sakya lại đi
ngược lại với lời dạy Phật và khuyến khích cái niềm tin vào tình trạng cao hay
thấp dựa trên căn bản của giống nòi. Niềm tin mù quáng này đã dẫn đến hậu quả
là họ bị tiêu diệt lần thứ hai.
Người dân Bạt-kì (Vajjian) bị lụi
tàn cũng vì họ đã trở thành nạn nhân của sự lừa dối của giáo sĩ Bà-la-môn
Vassakāra và bắt đầu quên đi những lời dạy của Phật. Tương tự, bộ tộc Sakya bị
tiêu tan không phải vì họ đã tin theo lời Phật dạy, mà là vì họ đã coi thường lời
Phật dạy rằng, sanh không phải là cái nền tảng cho cái tình trạng cao hay thấp.
Những người thuộc dòng dõi Chiến sĩ (khattiya) của các bộ tộc Sakya và Koliya
thì quá kiêu ngạo về tính cao thượng về bộ tộc của họ đến nổi không muốn gả bất
kì đứa con gái nào của mình cho thậm chí cả các dòng dõi Chiến sĩ khác.
Trong sự xem xét này, lời dạy của
Phật rất rõ ràng:
Jātitthaddho dhanatthaddho, gottatthaddho ca yo naro;
saññātiṃ atimaññeti,
taṃ parābhavato
mukhaṃ
-Kinh Tập 104, Kinh Bại Vong (Parābhavasutta)
Nếu người nào tự hào về sanh, về tài sản và dòng họ, mà xem
thường bà con của mình, thì đó là nguyên nhân của sự bại vong.
Đây chính xác là những gì đã diễn
ra. Các bộ tộc Sakya và Koliya đều bị đầu độc bởi tính cách tự phụ giai cấp, mà
trong quá khứ, họ đã từng khinh miệt vua của nước Pañcāla khi từ chối gả con
gái của họ cho ông ta, mặc dầu ông ta là người thuộc dòng Chiến sĩ. Cũng vậy, họ
cho rằng, vua Pasenadi là một người thuộc giai cấp thấp và đã lừa dối ông ta,
thay vì gả một công chúa cho ông.
Trong cả hai trường hợp, họ đều bị
tiêu diệt. Vì thế, nguyên nhân chính của diệt vong là sự tự hào quá mức về giai
cấp của họ. Người Sakya đã không vâng giữ lời Phật dạy; thay vào đó, họ hành động
ngược lại lời dạy. Đó chính là lí do khiến cho họ bị tiêu diệt.
Nguyên nhân thật sự của sự suy tàn
của Ấn Độ trên bình diện quốc gia chính là hệ thống giai cấp hủ nát này. Hệ
thống giai cấp đã chia rẽ con người thành những phe phái và làm họ suy yếu. Đất
nước vẫn chưa thể thống nhất thành một khối để chống đỡ, mà đang phải chịu đựng
những hệ quả khủng khiếp từ tình trạng bất hòa hợp này. Chúng ta hãy quyết tâm
từ bỏ mối hiểm họa của hệ thống giai cấp này khỏi xã hội chúng ta.
TVN
Translated from the article titled, “Why was the Sakyan Republic Destroyed?” By S.N. Goenka,
from Vipassana
Research Institute
No comments:
Post a Comment